Lược sử hình thành Tổng_giáo_phận_Huế

Huế thuộc Hạt Đại diện Tông tòa Đàng Trong (1659-1844)

Giáo hoàng Alexanđê VII (1655-1667) ban Sắc chỉ Apostolatus Officium, ký ngày 29 tháng 7 năm 1658 bổ nhiệm linh mục François Pallu làm Giám mục hiệu tòa Heliopolis và linh mục Pierre Lambert de la Motte làm Giám mục hiệu tòa Berythe, đều là Giám mục “trong phần đất dân ngoại” ở Việt Nam - Đại Việt.

Hơn một năm sau, ngày 9 tháng 9 năm 1659, Giáo hoàng Alexandre VII lại công bố Sắc chỉ Super Cathedram phân chia “phần đất dân ngoại” ở Việt Nam - Đại Việt rõ ràng: Giám mục Pallu coi sóc giáo phận Đàng Ngoài và Giám mục Lambert coi sóc giáo phận Đàng Trong.

Huế thuộc Hạt Đại diện Tông tòa Đông Đàng Trong (Quy Nhơn) (1844-1850)

Giám mục Taberd, vị Giám mục chính thứ 10 Giáo phận Đàng Trong qua đời năm 1840 và Giám mục Etienne-Théodore Cuénot kế nhiệm triệu tập Hội nghị Gò Thị tháng 10 năm 1841 chuẩn bị cho việc xin Tòa Thánh chia tách và thành lập 2 giáo phận mới.

Đến tháng 9 năm 1844, Tòa Thánh đã quyết định thành lập hai Hạt Đại diện Tông Tòa mới: Hạt Đại diện Tông Tòa Tây Đàng TrongHạt Đại diện Tông Tòa Đông Đàng Trong.

Hạt Đại diện Tông tòa Bắc Đàng Trong (1850)

Năm 1850, Tòa Thánh lại chia Đàng Trong thành bốn Hạt Đại diện Tông tòa: Đông Đàng Trong (Quy Nhơn) vẫn do Giám mục Cuénot Thể coi sóc; Tây Đàng Trong (Sài Gòn) do Giám mục Lefèbvre đảm trách; Nam Đàng Trong (Nam Vang) do Giám mục Michel điều hành; Bắc Đàng Trong (Huế) do Giám mục Pellerin cai quản.

Ngày 28 tháng 8 năm 1850, Giáo hoàng Piô IX ban hành Sắc chỉ Postulat Apostolici, Hồng y A. Picchiani thừa lệnh ký tên, đóng dấu ấn Ngư phủ, chấp thuận thành lập giáo phận mới có danh xưng là Bắc Đàng Trong (Giáo phận Huế) với diện tích khoảng 12.227 km2. Ranh giới phía Ðông là biển Ðông. Phía Tây là biên giới Việt-Lào. Phía Bắc là dòng sông Gianh - Nguồn Son, có huyện địa đầu Bố Trạch (từ năm 2005, khu vực nam sông Gianh - sông Son được chuyển giao cho giáo phận Vinh, nay khu vực này thuộc giáo phận Hà Tĩnh). Phía Nam từ Thiên hạ đệ nhất hùng quan của đèo Hải Vân trở ra, thuộc huyện Phú Lộc, phủ Thừa Thiên. Nhân sự gồm có 2 thừa sai Pháp Jean Paul GalyJoseph Sohier, 12 linh mục người Việt, 2 chủng viện Di LoanKẻ Sen, 6 tu viện Mến Thánh Giá Nhu Lý, Di Loan, Dương Sơn, Phủ Cam, Kẻ Bàng, Mỹ Hương, 24.000 giáo dân. Tháng 12 năm 1856, Giám mục François-Marie Pellerin rời Huế vào Đà Nẵng và lên tàu La Capricieuse của Hải quân Pháp đi Hương Cảng rồi đi Pháp. Tháng 11 năm 1860, giám mục này đi Penang và bàn giao công việc điều hành Hạt đại diện Tông Tòa trong tay Giám mục phó Joseph-Hyacinthe Sohier (tấn phong giám mục ngày 17 tháng 8 năm 1851 tại Di Loan).

Hạt Đại diện Tông tòa Huế (1924)

Năm 1924, Hạt Đại diện Tông tòa Huế có 44 thừa sai, 83 linh mục, 35 sư huynh, 500 nữ tu, 68.000 giáo dân.

Năm 1925, Giáo hoàng Piô XI lập Tòa Khâm Sứ Ðông Dương. Vị khâm sứ đầu tiên là Giám mục Constantino Ajuti, người Ý, được bổ nhiệm ngày 25 tháng 5 năm 1925. Quan Thượng thư Nguyễn Hữu Bài đã đề nghị và giúp đỡ xây cất Tòa Khâm Sứ tại Huế, cạnh nhà thờ chính tòa Phủ Cam và khánh thành năm 1925. Năm 1951, Tòa Khâm Sứ được dời ra Hà Nội. Hiện nay, tòa nhà ở Huế là trụ sở của cộng đoàn Mến Thánh Giá Huế.

Năm 1941, Công đồng Đông Dương đã họp tại Toà khâm mạng Phủ Cam, Giáo phận Huế lớn mạnh với số giáo dân 74.904 người, 25 thừa sai Paris, 102 linh mục người Việt Nam.

Năm 1950, Hạt Đại diện Tông Tòa Huế kỷ niệm 100 năm thành lập Địa phận, số giáo dân là 78.500.

Tổng giáo phận Huế (1960)

Ngày 24 tháng 11 năm 1960, Giáo hoàng Gioan XXIII ra Tông Thư “Venerabilium Nostrorum” thiết lập Hàng Giáo phẩm Công giáo Việt Nam với 3 Giáo tỉnh: Hà Nội, HuếSài Gòn. Ngày 8 tháng 12 năm 1960, tông thư này chính thức công bố tại Việt Nam. Cùng với việc nâng cấp Hạt Đại diện Tông Tòa Huế thành Tổng giáo phận, Giáo hoàng còn ra quyết định bổ nhiệm Giám mục Hạt Đại diện Tông tòa Vĩnh Long Phêrô Martinô Ngô Đình Thục làm Tổng Giám mục đô thành Tiên khởi, Trưởng giáo tỉnh Huế. Tính đến năm 1962, Tổng Giáo phận Huế có 162 linh mục (112 linh mục triều, 50 linh mục dòng) và 100.225 tín hữu. Số giáo xứ có linh mục là 85 và giáo họ không có linh mục là 264.

Liên quan